#tutorial #blogspot #blogger #template blogspot #fix blogger
Showing posts with label Đọc và ngẫm. Show all posts
Showing posts with label Đọc và ngẫm. Show all posts

29.12.15

Hai câu chuyện nhỏ: Số phận có thay đổi được không?

Người xưa nói, có tâm thì dẫu không có tướng, tướng cũng sẽ theo tâm mà sinh; có tướng mà không có tâm, thì tướng ấy cũng theo tâm mà tiêu mất. Câu ấy ý rằng: Hình tướng một cá nhân là tuỳ theo tâm niệm thiện – ác của cá nhân ấy mà biến hoá theo, số phận theo đó cũng lại có những thay đổi.

Một người bán dầu tên Bùi Độ (đời vua Hán Cảnh Đế) nghèo khổ lang thang, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói vì có hai đường gân chạy xéo từ cằm lên mép miệng. Ấy là tướng ăn xin đầu phố, đói khổ mà chết
Ngày kia Bùi Độ gặp một thiếu nữ ngồi khóc bên giếng sâu. Hỏi ra sự tình mới biết thiếu nữ mang vàng đi để chuộc tội oan của cha, chẳng may bị đánh rơi xuống giếng. Ai cũng nói dưới giếng có con trăn to. Thiếu nữ đang tuyệt vọng muốn quyên sinh.
Bùi Độ thương tình, nghĩ mình trước sau cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được vàng cho thiếu nữ. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế.
Một lần gặp lại, nhà tướng số kinh ngạc nói rằng tướng chết đói của Bùi Độ đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ.
Quả đúng vậy, sau này thiếu nữ tên Ngọc Hà đền ơn, đem Bùi Độ về dạy học và giao ước vợ chồng rồi mới thưa với phụ thân. Cha nàng gửi gắm Bùi Độ sang một người bạn khác để nhờ tiến cử.
Thời gian xa cách Ngọc Hà, Bùi Độ đã lạc lòng với những hình bóng giai nhân khác. Trên bước đường tiến quan, Bùi Độ ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn, nhưng ông bảo Bùi Độ đã hiện lại tướng chết đói. Bùi Độ tức giận bỏ đi.
Sau khi được làm quan, Bùi Độ đánh mất nhân cách, chỉ lục lạo, cưỡng bức các cô gái đẹp, bị triều đình hạ lệnh bắt về kinh trị tội. Bùi Độ sợ hãi trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một mỏm đá.
Cái phước của Bùi Độ xuất hiện do tâm niệm liều mạng tìm vàng cứu cô gái. Phước đó quá lớn đến nỗi chuyển hẳn tướng mạo và số mệnh để cho Bùi Độ trở thành quan chức vinh hiển. Nhưng rồi, tư cách tầm thường tham dục đã phá vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất hiện trở lại. Như vậy, tướng mạo tùy thuộc vào nghiệp chứ không cố định. Nếu chúng ta thường xuyên biết “liều mạng” cứu giúp mọi người, ắt hẳn tướng mạo và số kiếp chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp!

Vận mạng có thể thay đổi?
Viên Liễu Trang là một nhà tướng số danh tiếng. Nhìn chỉ tay hay cái mũi của một người nam hoặc nữ, ông có thể đoán biết trước vận mạng tương lai của họ. Một hôm, có một vị đại thần dắt con đến nhờ ông xem tướng. Viên Trang coi tướng xong biết đứa bé này vài năm sau sẽ chết. Ông liền bảo cho vị quan kia hay.
Nghe nói vậy, vị quan ấy rất đau khổ. Trên đường về nhà ông đến gặp một vị sư. Vị tăng hỏi:“Có việc gì xảy ra mà trông ngài sầu não như thế?”. Vị quan đáp rằng ông vừa mới nghe nhà tướng số báo cho biết một tin chẳng lành.
Hòa Thượng liền xem tướng đứa nhỏ để tìm hiểu vận mạng của nó. Ngài nói với vị quan: “Chỉ có phước đức mới cứu được mạng sống của cháu. Nhưng cơ duyên làm phước không phải dễ. Nếu ngài muốn có phước đức thì cách tốt nhất là nên phóng sinh. Tạo phước đức bằng hành động thiện không giết hại sinh vật mới có thể bảo vệ mạng sống cho con ông”.
Nghe lời Hòa Thượng, vị quan kia liền phát nguyện không bao giờ sát sanh mà lại còn phóng sinh. Ông tinh tấn làm việc thiện như vậy được ít năm; sau đó gặp lại cha con ông, Hòa Thượng bảo: “Chưa đủ! Ông cố gắng tạo thêm nhiều thiện nghiệp nữa mới có thể cứu được mạng sống của con ông”.
Viên quan lại nỗ lực cứu thoát nhiều sinh vật nữa. Khi gặp dịp làm phước giúp đỡ ai, người cũng như thú vật; ông luôn luôn sẵn sàng đóng góp thời giờ lẫn tiền bạc. Nhờ vậy, viên quan đã cứu độ vô số sinh linh, và người con đến năm bị chết yểu nó vẫn sống và trở thành một thanh niên khỏe mạnh.
Nhà tướng số Viên Liễu Trang biết sự việc này. Từ đó về sau, mỗi khi coi thấy người nào có vận mạng xấu, ông liền khuyên bảo họ nên cố gắng làm việc phước đức và đừng vô cớ sát sinh. Nhờ tu nhân tích đức mà nhiều người đáng lý sẽ phải chết sớm khổ đau, họ lại sống trường thọ; nhiều kẻ nghèo khó trở nên giàu sang.
Theo lichvansu.wap.vn


Ba câu chuyện nhỏ giúp bạn nhận ra đâu là con đường tới hạnh phúc

Trong cuộc sống, khi gặp khó khăn bế tắc bạn sẽ làm gì? Tiếp tục kiên trì hay buông xuôi tất cả? Vẫn có một con đường khác dành cho bạn, hãy tĩnh tâm lại, suy nghĩ xem rốt cuộc bản thân đang mong muốn điều gì?


Câu chuyện 1
Một nhóm bạn trẻ tuổi đi khắp nơi tìm kiếm hạnh phúc, nhưng lại gặp được rất nhiều phiền não, ưu sầu cùng thống khổ.
Họ bèn đến hỏi bậc thầy Socrates (một triết gia Hy Lạp cổ đại), rốt cuộc hạnh phúc đến từ đâu?
Socrates nói: “Các bạn trẻ, hãy giúp tôi tạo ra một chiếc thuyền trước đã!”
Những người này đành tạm thời gác chuyện tìm kiếm hạnh phúc qua một bên để tìm kiếm vật liệu đóng thuyền. Suốt 49 ngày, họ cưa một gốc cây vừa cao vừa lớn, khoét rỗng ở giữa tạo thành chiếc thuyền độc mộc.
Thuyền độc mộc được đưa xuống nước, những người trẻ tuổi kia mời lão sư lên thuyền, một bên hợp sức chèo thuyền, một bên cùng ca hát đồng thanh.
Socrates nói: “Các thanh niên, các cậu thấy vui không?”
Đám thanh nhiên nhao nhao trả lời: “Rất vui ạ!”
Socrates nói: “Niềm vui chính là như vậy đó, nó tự nhiên đến khi chúng ta bận rộn để thực hiện một mục tiêu rõ ràng nào đó”.
Đúng! Thực ra niềm vui chỉ đơn giản là như vậy.
Quá trình phần đấu vì mục tiêu của bản thân mình cũng vô cùng thú vị. Một tâm hồn khoáng đãng, thì mới dễ gạt bỏ đi những phiền muộn.

Câu chuyện 2
Một con cáo đi ngang qua một vườn nho có tường rào bao quanh chắc chắn. Nó có một cái mũi vô cùng nhạy bén cùng với cái đầu thông minh. Dựa vào kinh nghiệm nhiều năm, nó biết rằng những quả nho trong vườn kia rất đặc biệt, và chắc chắn nó chưa bao giờ được nếm thử loại nho nào hảo hạng như thế.
Con cáo này đã từng nếm qua vô số các loại nho ngon, nó thậm chí còn nói với những người bạn của mình rằng: “Trên đời này chưa từng có loại nho nào mà tôi chưa ăn”.
Đối mặt với vườn nho mà nó chưa được nhấm nháp qua quả nào, tính tham ăn cùng với hiếu thắng khiêu khích nó. Nó tự nói với chính mình: “Cáo ta đây thật vô cùng đau xót nếu như không được ăn trái nho kia, cũng giống như chỉ muốn làm binh sĩ quèn, thật không có tiền đồ gì”.
Thế là, nó quyết định bằng mọi cách phải vào vườn nho, nếu không nhất định sẽ không đi đâu. Sau khi đi hai vòng xung quanh vườn, nó phát hiện vườn nho này tường bao rất cao, nó không thể nhảy lên được. Vậy là nó ngồi lại suy nghỉ đủ cách, cuối cùng nó đã tìm được một cái lỗ nhỏ để có thể tiến vào. Nhưng cái lỗ này thật sự quá nhỏ, nó lại không thể chui qua. Suy nghĩ một lát, nó quyết định: Tuyệt thực, giảm béo.
Trải qua 3 ngày tuyệt thực, cáo đã gầy đi rất nhiều, nó dễ dàng chui qua cái lỗ nhỏ kia vào vườn nho. Nó vuốt ve những quả nho trong vườn, từ trước đến giờ, nó chưa từng nếm loại nho nào ngon như vậy. Thế là nó thỏa thích ăn, ăn liền trong ba ngày. Sau đó nó sợ gặp nguy hiểm và chuẩn bị rời khỏi đây.
Lúc này, một vấn đề mới xuất hiện: Bởi vì ăn mấy ngày liên tiếp, nó lại mập ú, nên không cách nào theo lỗ nhỏ kia mà chui ra ngoài. Bất đắc dĩ, nó lại một lần nữa tuyệt thực, lần này so với lần trước còn nhiều hơn một ngày.
Sau khi về nhà, nó đem kinh nghiệm ăn nho cùng với hai lần nhịn đói nói cho các cáo già ở trong làng, và hỏi: “Chuyện cháu làm có đáng giá hay không?”
Một cáo già nói: “Cháu mập lên bao nhiêu thì gầy đi bấy nhiều, vậy có khác nào không ăn, lại còn phải mạo hiểm tính mạng, quả thật không đáng”.
Một cáo già khác nói: “Tuy cháu có phải chịu không ít những nguy hiểm, nhưng cháu lại được ăn một loại nho ngon, chưa bao giờ được ăn, đương nhiên là đáng giá”.
Qua cuộc đối thoại giữa các con cáo thấy được các kiểu quan niệm sống của con người chúng ta:
Một người sống dựa trên lập trường chiếm hữu, người ấy nhất định sẽ nằm trong vòng luẩn quẩn giữa hai thái cực, thống khổ vì chưa thể thoả mãn được dục vọng chiếm hữu, và sự tẻ nhạt sau khi dục vọng chiếm hữu được thỏa mãn.
Một người sống dựa trên lập trường xây dựng, người ấy chắc chắn sẽ cố gắng theo đuổi mục tiêu chưa đạt được và thong dong thoải mái khi đã được mục tiêu. Quan niệm thứ nhất chắc chắn là tiến thoái lưỡng nan, quan niệm sống sau chắc chắn sẽ hạnh phúc.
Câu chuyện 3
Một con kiến hết sức chăm chỉ, siêng năng, một ngày nó đi lạc vào cái sừng trâu khô. Con kiến rất nhỏ, sừng trâu cong cong, kiến thấy sừng trâu giống như một đường hầm vô cùng rộng lớn. Nó nghĩ, ra khỏi đường hầm, chắc sẽ là một danh lam thắng cảnh đẹp tuyệt trần. Ai ngờ, càng đi lại càng thấy hẹp, cuối cùng hẹp đến nỗi không thể nhét thân vào nữa. Vì thế, kiến buộc phải dừng lại, sau đó suy nghĩ một hồi lâu, nó quyết định quay lại, khởi đầu lại một lần nữa.
Lần này, nó đi ra hướng ngoài của sừng trâu, kết quả phát hiện còn đường càng ngày càng rộng, hơn nữa đi ra khỏi sừng trâu, nó nhìn thấy trời xanh mây biếc, cao vời vợi, dưới đất cây cối tốt tươi, tựa như từng con sóng xanh cuồn cuộn ngoài biển cả. Trong chốc lát, nó cảm giác mình chính là chú chim non bay lượn giữa bầu trời tự do, như con cá nhỏ bơi lội thoải mái nơi biển rộng.
Sau đó, kiến gặp người liền nói: “Lúc gặp trở ngại con người không cách nào vượt qua, thì đừng ngại hãy đổi phương thức. Điều này giống như mở ra một cánh cửa khác, đổi một cái chìa khóa, hy vọng cánh cửa ấy sẽ trở nên rộng mở”.
Không để tâm vào chuyện vụn vặt”, rõ ràng là rất có đạo lý.
Muốn nhận biết được bên nào là đỉnh sừng trâu dường như chẳng dễ dàng khi đang bên trong nó. Chỉ với một tâm hồn tỉnh táo và thông suốt thì mới giải trừ được hoàn cảnh khó khăn.
Hoàng Sâm, dịch từ Watchinese


2.12.15

Tu trăm năm mới đi chung thuyền, tu nghìn năm mới nên duyên chồng vợ

Tu trăm năm mới chung một chuyến thuyền, tu nghìn năm mới nên duyên chồng vợ, đó là câu nói dân gian về duyên phận nhân sinh, gặp nhau bởi chữ duyên, gắn kết đời nhau bởi chữ nợ, trân quý cơ duyên này cũng chính là trân quý bản thân mình vậy.

Vợ chồng là thiếu nợ lẫn nhau sao? Vợ chồng là nợ nghiệp nhau sao? Duyên vợ chồng như thế nào mới có thể chấm dứt đây? Vợ chồng lại là cái gì duyên mà kết thành đây? Tục ngữ có câu:“Tu trăm năm mới đi chung thuyền, tu ngàn năm mới chung chăn gối”. Ý câu này là, những người có thể ngồi chung trên một chuyến thuyền đều là người hữu duyên, còn có thể kết thành vợ chồng thì giữa họ với nhau mối duyên càng sâu đậm. Nói cách khác, quan hệ vợ chồng là loại sâu sắc nhất trong tất cả các loại duyên phận, chỉ có điều là trong những duyên này có thiện có ác.

Duyên phận vợ chồng là mối duyên sâu sắc nhất trong các loại duyên phận.
Duyên vợ chồng nhìn chung đến từ ba loại duyên dưới đây:
Duyên đến từ việc người này có ân với người kia
Con người trong những lần gặp nhau, nếu người này có ân với người kia, khiến họ cảm động khôn nguôi, và nguyện ý báo ân trả nợ, thì vào kiếp sau một người sẽ là nam còn người kia là nữ, bởi nguyện ước thiện lành trong quá khứ mà kết thành vợ chồng.
Ví dụ, khi bạn rơi xuống nước, lúc đó không ai nguyện ý cứu bạn, nhưng lại có một người dũng cảm quên mình vì bạn, mặc kệ có cứu sống hay không, bạn vẫn ghi lòng tạc dạ ân nghĩa này. Vì đền ân cứu mạng, bạn vào kiếp sau sẵn lòng làm thân trâu ngựa báo đáp. Loại tình huống này chính là duyên vợ chồng vì báo ân mà kết thành.
Trong các loại duyên vợ chồng, loại duyên vợ chồng này có thể hạnh phúc mỹ mãn nhất, bởi vì sâu thẳm trong ý thức của một người tồn tại ý niệm dâng hiến một cách không oán không hối, nên hai bên đều có thể hạnh phúc. Tuy nhiên, loại vợ chồng này không bảo đảm là không cãi nhau hoặc không ly hôn, nếu cá tính không hợp thì vẫn sẽ có vấn đề ma sát khi sống chung.
nợ nhau, ly hôn, duyên vợ chồng, Bài chọn lọc,
Duyên vợ chồng vì báo đáp ân tình mà kết thành, được cho là hành phúc mỹ mãn nhất. (Ảnh minh họa)
Duyên mà người này thiếu nợ người kia
Nếu như duyên vợ chồng kết thành từ việc người này thiếu nợ người kia, thì chúng ta có hai loại nợ nần được tính đến. Một là khoản nợ tiền tài, hai là khoản nợ tình cảm, cũng có những khoản nợ khác, nhưng hai loại trên vẫn là chính yếu.
Ví như nếu kiếp trước bạn là đàn ông, bị một người con gái phụ bạc, lừa gạt tình cảm, cảm thấy không cam lòng. Như vậy kiếp sau bạn sẽ còn gặp lại cô ấy. Khi cô gái này gặp được bạn, cô sẽ nắm chặt bạn, không bao giờ để bạn chạy trốn nữa. Đây chính là vợ chồng vì khoản nợ tình cảm mà kết thành.
Một ví dụ khác như, khi nam nữ đang trong quá trình tìm hiểu, con trai lúc nào cũng là người chi trả mọi khoản. Nếu cô gái ham hưởng thụ điều này, mà lại không thành tâm muốn kết giao, khi đã lợi dụng được một thời gian liền lạnh lùng rời đi, như vậy người con trai đương nhiên sẽ rất không cam tâm. Nếu là vậy, cô gái này trong kiếp sau sẽ còn gặp người con trai này, cô gái khi đó cũng sẽ có tiền, nhưng rất nhiều tiền của cô đều bị anh ta tiêu hết, hoặc cuối cùng đều thuộc về anh ta. Trường hợp này là vợ chồng vì khoản nợ tiền tài mà kết thành. Dẫu đây là vì ác duyên mà kết thành vợ chồng, nhưng chỉ cần trong quá trình sống chung tại kiếp này có thể làm việc chăm chỉ, không so đo với nhau khi ở chung, thì vẫn có cơ hội sống hạnh phúc.
Nhân duyên thiếu nợ lẫn nhau
Loại duyên thiếu nợ lẫn nhau này, tức là nợ qua nợ lại nhưng là nợ tiền tài và tình cảm là phần nhiều. Nói cách khác, nếu đôi bên khi tìm hiểu, đã nợ nhau các khoản tiền tài và tình cảm như trên, họ kiếp này gặp lại kết thành vợ chồng, vừa vặn dễ dàng giúp nhau trả nợ.
Lúc này cũng có thể nói, vợ chồng kết thành chính là vì cân bằng nhân quả. Chính vì có nhân quả nên “quan hệ” giữa con người với nhau liên tục được cân bằng, không tồn tại bất công.
Vì vậy, bất kì ai khi đã nên duyên vợ chồng, cần phải quý trọng nhau mà chung sống, vì khoản nợ này sẽ còn thay đổi. Không được oán giận người kia, không được oán trời trách đất, vì oán thán sẽ khiến món nợ kia trả hoài không hết! Hoặc món nợ đã mắc càng ngày càng nặng hơn! Trong loại duyên vợ chồng này, bởi vì hai bên đối với nhau đều đòi hỏi bên này phải trả nợ bên kia, nên thường xuất hiện tính toán và tranh chấp. Tuy nhiên, hai bên chỉ cần thay đổi suy nghĩ, dùng thái độ cam tâm tình nguyện mà đối đãi với người kia, như vậy khoản nợ này sẽ nhanh chóng được trả hết.
nợ nhau, ly hôn, duyên vợ chồng, Bài chọn lọc,
Nếu duyên là nợ nhau thì đứng oán thán để món nợ được trả hết. (Ảnh minh họa)
Duyên vợ chồng tốt nhất
Trên đây là nói về các loại yếu tố kết thành duyên vợ chồng. Nếu dùng số mệnh con người để xem, các loại thiện ác trong duyên vợ chồng cũng phần nào nói lên bạn có hạnh phúc hay không, những người vì ác duyên mà thành vợ chồng, lại càng không cần phải nói. Tuy nhiên, nếu hai bên phù hợp ba điều kiện dưới đây, bất kể là loại vợ chồng duyên gì cũng có thể hưởng hạnh phúc. Vì vậy, khi bạn chọn người phối ngẫu, ba nhân tố này là rất quan trọng đấy.
Một, hai bên cá tính tương hỗ.
Hai, hai bên đều kính trọng lẫn nhau.
Ba, hai bên đều là người có trách nhiệm.
Nói cách khác, điều kiện bên ngoài, vinh hoa phú quý hay không cũng không phải chỉ tiêu hạnh phúc hay không.
Làm sao biết duyên vợ chồng đã kết thúc hay chưa?
Bên cạnh đó, khi chung sống tại kiếp này, vợ chồng cãi nhau là chuyện thường tình. Tuy nhiên, sau khi giằng co cự cãi không ai chịu ai, luôn sẽ có một người nhất định muốn ly hôn, nhưng người kia lại không chịu, điều này nói lên rằng khoản nợ lẫn nhau vẫn còn chưa hết, duyên vợ chồng này còn chưa kết thúc.
Ngược lại, nếu như trong quá trình chung sống, tình cảm vợ chồng nhạt nhẽo, chẳng ai lưu luyến ai. Điều này nói lên rằng khoản nợ giữa vợ chồng đã hết, vì vậy hai bên sống chung giống như bạn bè, chẳng lưu luyến bịn rịn.
Ngoài ra, qua việc chia tay cũng có thể nhìn rõ duyên vợ chồng đã kết thúc hay chưa. Bất luận việc chia tay này là tử vong, đi xa nhà, xuất gia, hay ly hôn.
Nếu như đôi bên khó lòng chia ly, lúc chia tay khóc nức nở, thì ắt hẳn ân oán vợ chồng này còn chưa trả hết, duyên vợ chồng vẫn còn.
Còn khi chia tay, oán hận lẫn sự bất mãn vẫn khuấy động tâm can hoặc không cam lòng, điều này nói lên rằng “khoản nợ” giữa  các bạn vẫn còn chưa trả hết, kiếp sau gặp lại vẫn sẽ tiếp tục kết làm vợ chồng.
Hoặc lúc chia tay, cả hai giống như bạn bè, không oán hận, chỉ đau thương hoặc khổ sở một chút, nhưng không đến nỗi muốn níu kéo nhau, điều này nói lên rằng khoản nợ giữa vợ chồng các bạn cuối cùng có thể chấm dứt rồi.
nợ nhau, ly hôn, duyên vợ chồng, Bài chọn lọc,
Nếu đã hết duyên hết nợ, thì dẫu có đường ai nấy đi, lòng cũng ít luyến tiếc. (Ảnh minh họa)
Vợ chồng là nghiệp chướng sao?
Phật giáo thường nói, kết hôn là nghiệp chướng, cái này chủ yếu nói về giải thoát trong tu luyện. Dựa vào duyên vợ chồng trong quá khứ, bởi vì có ân oán tình thù chưa kết thúc, vì vậy đời này kết làm vợ chồng, mà trước khi ân oán tình thù chưa cân bằng, hai bên sẽ phải gắn kết với nha, người này cản trở người kia, tạo thành chướng ngại trên con đường tu hành. Tuy nhiên, nếu các bạn mong muốn nhanh chấm dứt duyên vợ chồng này, có thể dùng lý trí mà suy nghĩ để cải thiện quan hệ đôi bên. Suy nghĩ cho lợi ích của đối phương là điều kiện tiên quyết để quyết định sự việc, chuyện cản trở lẫn nhau này có thể giải quyết được.
Ngoài ra, nếu như duyên vợ chồng của các bạn còn chưa kết thúc, mà bạn muốn tu hành, thì bạn có thể tận dụng khoản thời gian chung sống vợ chồng để hiểu rõ nhân tính. Việc này chính là giúp bạn thêm trí tuệ, bởi hiểu tận tượng nhân tính con người không phải chuyện dễ dàng.
Nam và nữ đều có cả ưu và khuyết điểm, và khoảng thời gian chung sống của vợ chồng cũng chính là thời khắc bạn học tập ưu điểm của người kia, đây cũng là điều không dễ để tiếp thu. Đặc thù giữa nam nữ khác nhau rất lớn, ví dụ như mưu cầu dục vọng và giá trị quan của nam nữ khác nhau, sở thích hoặc nhu cầu tình cảm cũng không giống nhau v.v.., bạn chính là trong khi chung sống vợ chồng mà tự mình tìm hiểu, nếu làm được như thế thì đây cũng là tu hành rồi.
Duyên vợ chồng mặc dù là trở ngại giải thoát, nhưng nếu bạn có thể tận dụng tốt việc này để tìm hiểu nhân tính, thì cũng chính là có thể giúp bạn khai mở trí tuệ, chẳng phải đó là “đá kê chân” sao. Hãy tận dụng cho tốt cơ duyên này vậy!
Dịch từ watchinese.com

Trên đời này, mỗi người đều mang theo một thứ ngàn năm khó được

Trên đời này thứ gì là khó có được nhất? Không phải khoẻ mạnh trường thọ, không phải bạn bè tri tâm, cũng chẳng phải thân quyến hoà hợp, mà chính là phúc phận để sinh mệnh có thể tồn tại trên đời…

Có ba vị tỳ kheo thảo luận vấn đề: “Trên đời này thứ gì là khó được nhất”?
Vị tỳ kheo thứ nhất nói: “Trên đời khó được nhất là có mãi tuổi thanh xuân, khoẻ mạnh và trường thọ. Một người cho dù có gia tài của cải tiền tỉ, nhưng khi bệnh tật già nua, cũng không thụ hưởng được những niềm vui của đời”.
Vị tỳ kheo thứ hai nói: “Trên đời điều khó được nhất là có người bạn tri kỷ, có thể cùng nhau chia sẻ hoạn nạn. Một người dù cho quyền cao chức trọng đến đâu, nếu không có lấy một người bạn chân thành bên cạnh, quạnh hiu đơn độc, chẳng khác nào đoá hoa mà mất đi hương thơm, không có ong bướm bay quanh.”
Vị tỳ kheo thứ ba nói: “Tôi nhận thấy thứ khó được nhất là họ hàng quyến thuộc hoà hợp mỹ mãn. Nếu một người có thân thể khoẻ mạnh, có bạn tốt tri kỷ nhưng họ hàng quyến thuộc tranh đấu bất hòa, thì có ích gì? Cuộc sống mỗi ngày giống như ở địa ngục trần gian, muốn thoát ra mà không biết đến khi nào.”
Phật Đà nghe ba vị tỳ kheo luận nghị xong, liền quyết định triệu tập đại chúng. Lúc này tiết trời đang độ mùa thu, gió thu nhè nhẹ thổi, cỏ cây xanh tươi, không khí thanh khoát sảng khoái lòng người. Phật Đà nói với các chư vị tỳ kheo: “Trên thế gian này thứ gì là khó được nhất? Không phải khoẻ mạnh trường thọ, không phải bạn bè tri tâm, cũng chẳng phải thân quyến hoà hợp. Ta kể một câu chuyện cho các vị nghe:
Ở vùng biển xa xôi, có một con rùa mù, mệnh thọ của nó vô lượng kiếp số, trải qua trăm ngàn năm bãi bể nương dâu. Bình thường nó lặn sâu nghìn trượng tận dưới lòng đại dương, trăm năm mới nổi lên mặt nước một lần.
Lại có một cây gỗ nổi trên mặt nước, bên trong có một cái lỗ hổng, theo gió và sóng biển mà trôi dạt. Rùa mù trăm năm mới nổi lên mặt nước một lần, để gặp được cây gỗ nổi thì đã là kỳ tích, huống hồ hôm nay lại gặp đúng cây gỗ có lỗ hổng, chở nó vào bờ.
Được thân người chính là điều may mắn của một sinh mệnh.
Rùa mù gặp gỗ rỗng, hơn cả cơ hội ngàn vạn năm có một, nhưng đối với sinh mệnh trôi nổi trong luân hồi mà nói, muốn có được thân người còn khó hơn rùa mù được vào bờ cả vạn lần!”
Đức Phật dúm lấy một nắm đất, mở bàn tay ra, nói với các tỳ kheo: Chúng sinh được thân người như đất trên lòng bàn tay ta, chúng sinh chẳng được thân người như đất trên khắp đại địa cầu. Cái gì khó được nhất? Chính là thân người vậy!”
Một khi đã mất thân này, vạn kiếp khó có lại được, đây không phải chỉ là lời dạy của kinh Phật cổ xưa mà còn là nhận thức không thể thiếu trong cuộc sống của sinh mệnh chúng ta, giúp chúng ta quý tiếc thân người, trân trọng nhân duyên đương tại.
Cái gì khó được nhất? Thân người khó được nhất. Con người là anh linh của vạn vật, cũng duy chỉ có con người mới có thể tu luyện và đắc Đạo. Cho nên cần trân quý cơ duyên này.
Danh, lợi, tình hay bất kể thứ gì trên đời đều không mang theo được, chúng ta khi đến cõi đời này với hai bàn tay trắng, khi rời khỏi nơi đây cũng vẫn là hai bàn tay trắng này thôi. Vậy vì sao còn mê lạc trong thế gian, vì danh, vì lợi mà theo đuổi đến cùng, lại càng tạo thêm nhiều nghiệp lực tội lỗi. Thiện – ác tất có báo ứng đó là đạo lý của Trời, nếu cứ như vậy càng khiến cho đời sau thêm nhiều khổ nạn.
Hãy trân trọng hiện tại, hành thiện tích đức, tu tâm đoạn dục, tìm đến con đường chính Pháp, “phản bổn quy chân” mới là mục đích chân chính để làm người.
Theo Vietdaikynguyen

17.11.15

Bài học cuộc sống: Con chim ưng “bất trị” của Thành Cát Tư Hãn

Con người ta khi tức giận thì dường như mất hết đi lý trí, không phân biệt được đúng sai và thường gây họa vào chính thời điểm này. Bởi vậy cho nên đừng bao giờ làm điều gì trong lúc đang nóng giận, nếu không muốn sau này phải hối hận.

800 năm về trước, trên thảo nguyên bao la xuất hiện một đế quốc hùng mạnh. Tương truyền rằng miền đất đó rộng đến nỗi nếu dùng ngựa loại tốt mà chạy từ miền đông sang miền tây cũng phải mất một năm. Bởi vì đế quốc này rộng lớn như biển, cho nên vị Đại Hãn kiến lập nên đế quốc này được gọi là Thành Cát Tư Hãn, ý nói là “cũng giống như Vua Biển”
Đại Hãn rất yêu quý một con chim ưng, khi ra ngoài săn bắn ông luôn mang chim ưng theo cùng. Chú chim ưng này khi Đại Hãn vừa ra mệnh lệnh liền bay vào không trung tìm kiếm con mồi. Nếu như nhìn thấy mục tiêu nó liền nhanh như tên bắn sà xuống quắp đi. Khi chinh chiến, chú chim chỉ dẫn phương hướng của quân địch cho Đại Hãn.
Một ngày nọ, Đại Hãn và các tùy tùng đi săn. Khi trên đường trở về, Đại Hãn lệnh cho các tùy tùng về trước, đợi khi mặt trời dần xuống, ông mới thuận theo một lối tắt mà trở về.
Đi được một hồi, do khí trời mùa hè nóng nực, Thành Cát Tư Hãn cảm thấy khát nước, muốn tìm nước uống, nhưng vì sức nóng của Mặt trời đã khiến các khe suối liền mấy tháng trời đều khô cạn. Song ông biết ở phía trước có một dòng suối nhỏ chảy mãi không bao giờ cạn.
Ông dựa vào trí nhớ, tìm kiếm rất lâu, cuối cùng đã tìm được dòng nước. Tuy nhiên, dòng nước bây giờ chảy nhỏ giọt, rất lâu mới tụ thành một giọt nước nhỏ xuống.
Đại Hãn lấy một chén rượu từ trong túi ra, từ từ hứng dòng nước. Mất một đoạn thời gian thật lâu nước mới chảy đầy chén. Bởi vì quá khát, Thành Cát Tư Hãn không đợi thêm được nữa, không dễ gì đợi cho nước chảy đầy chén. Ngay khi ông vừa muốn đưa chén nước lên môi thì đột nhiên con chim ưng yêu quý của Đại Hãn bay tới hất cái chén từ trong tay ông tuột rơi xuống đất, nước đổ hết ra ngoài.
Thành Cát Tư Hãn cảm thấy khá bực tức. Con chim ưng chuyển mình bay quay lại rất nhanh, sau đó nó đậu trên hòn đá bên dòng nước, ông không hiểu con chim ưng đang làm cái gì.
Thành Cát Tư Hãn lại nhặt cái chén lên để hứng nước. Lần này ông không muốn đợi quá lâu, nước vừa mới đầy một nửa chén ông đã nhấc chén lên, đưa gần lên môi chuẩn bị uống, liền ngay khi đó, chim ưng lại lao tới tấn công làm cái chén đổ lật ngược.
Lần này Thành Cát Tư Hãn đã thật sự nổi giận, ông trừng mắt nhìn chim ưng và nói: “Lần này là lần cuối cùng nhé, một lần nữa là mày sẽ phải trả giá cho những gì mày đã làm đấy!”
Lại thêm một lần nữa, con chim ưng kia vẫn cứ xông đến hất đổ cái chén nằm lộn ngược. Một tiếng “Xoát!”, Thành Cát Tư Hãn rút cây kiếm vàng ra, chém đứt đầu con chim ưng rơi xuống rồi lạnh lùng nói: “Đấy là mày tự làm tự chịu nhận lấy!”
Lần này Đại Hãn không muốn đợi thêm nữa, ông liền leo lên tảng đá, muốn trực tiếp tìm tới đầu nguồn uống cho bõ cơn khát. Đúng lúc ông trèo lên tới đỉnh núi tìm thấy vũng nước nhỏ đầu nguồn, ông mới vô cùng kinh ngạc, ngay giữa vũng nước đó là xác một con rắn lớn cực độc, dịch độc đang chảy hòa vào dòng nước trong suốt.
Thành Cát Tư Hãn chợt hiểu thông tất cả mọi thứ, hóa ra chim ưng là vì để cứu ông, mới hết lần này đến lần khác làm đổ chén nước. Ông hối hận vô cùng leo trở lại tảng đá, đau lòng bưng xác chim ưng lên thương tiếc, liền nói với chính mình: “Hôm nay ta đã học được một điều, đừng làm bất cứ điều gì khi giận dữ”.
Theo Vietdaikynguyen

Chữ tín được người xưa coi trọng như thế nào?

Từ xưa nay, chữ tín vốn được liệt rõ trong ngũ thường, người ở đời giao thiệp cốt lấy chữ tín làm chủ. Câu chuyện “Quý Trát treo kiếm” được lưu truyền cho đến thời nay cũng bởi cảnh giới cao quý trong chữ tín này của người xưa.



Quý Trát tên thật là Cơ Trát, là con út của vua Ngô Vương Thọ Mộng, là người mà Khổng Tử rất ngưỡng mộ.
Năm 544 trước Công nguyên, Quý Trát phụng mệnh đi viếng thăm nước Lỗ. Ông có mang theo một đoàn tùy tùng và xuất phát từ thủ phủ của nước Ngô. Lúc họ đi qua khu vực nước Từ, chứng kiến cảnh dân chúng nước Từ an cư lạc nghiệp, cuộc sống giàu có yên vui thì trong lòng họ không khỏi ngưỡng mộ: “Vua nước Từ trước tới nay nổi tiếng là dùng nhân nghĩa đối đãi với dân chúng, hôm nay được chứng kiến điều này, quả là danh bất hư truyền!”
Bởi vậy, Quý Trát liền nảy sinh ý muốn tới thăm hỏi vua nước Từ một chút để thổ lộ lòng ngưỡng mộ của mình. Vua nước Từ sớm đã được nghe danh tiếng về tài đức của Quý Trát, hôm nay lại đặc biệt được ông ghé thăm nên trong lòng rất vui mừng phấn khởi. Ông vội vàng sai tôi tớ tổ chức yến tiệc để chiêu đãi. Hai người họ nói chuyện thật vui vẻ, vua nước Từ tỏ vẻ rất thích thanh bảo kiếm mà Quý Trát đeo trên người, mấy lần ông muốn nói nhưng lại không tiện mở miệng.
quý trát, lời hứa, chữ tín, bảo kiếm,
Quý Trát đã tự hứa hẹn trong lòng mình rằng: “Đợi lúc đi nước Lỗ trở về, nhất định ta sẽ tặng lại thanh bảo kiếm này cho vua nước Từ”. (Ảnh: Internet)
Quý Trát là người thông minh nên chỉ liếc mắt đã hiểu thấu lòng vua nước Từ, muốn tặng lại thanh bảo kiếm cho vua nước Từ. Nhưng đột nhiên ông lại nghĩ: “Mình mang theo bảo kiếm đi sứ nước khác, là một sự tôn trọng lại càng là lễ tiết. Nếu bây giờ đem bảo kiếm tặng lại cho vua nước Từ thì chẳng phải là bất kính với vua nước Lỗ sao?”. Nghĩ như vậy nên Quý Trát đã từ bỏ ý nghĩ tặng bảo kiếm cho vua nước Từ. Nhưng ông cũng đã tự hứa hẹn trong lòng mình rằng: “Đợi lúc đi nước Lỗ trở về, nhất định ta sẽ tặng lại thanh bảo kiếm này cho vua nước Từ”.
Từ biệt vua nước Từ, Quý Trát lại dẫn đoàn người hướng về nước Lỗ. Sau khi tới nước Lỗ, ông cũng được quốc vương nước Lỗ nhiệt tình đón tiếp và chiêu đãi. Quý Trát cũng dựa vào tài hoa và trí tuệ của mình khiến cho người dân nước Lỗ bội phục và yêu kính.
Sau khi nán lại ở nước Lỗ hơn một năm, Quý Trát bắt đầu trở về nước. Ông cũng không quên lời hứa tặng lại thanh bảo kiếm cho vua nước Từ mà ông đã để trong lòng mình hơn một năm qua. Lúc đi ngang qua biên giới nước Từ, ông quyết định vào thăm vua Từ để thực hiện lời hứa của mình. Nhưng, khi đến nơi ông lại nhận được một tin tức vô cùng bất hạnh, đó là vua nước Từ đã tạ thế.
Lúc này, Quý Trát cảm thấy vô cùng hối hận và đau khổ. Ông cởi thanh bảo kiếm ra và tặng lại cho người kế thừa của vua Từ. Đoàn người tùy tùng đi theo ông vội ngăn cản và nói: “Thanh bảo kiếm là quốc bảo của nước Ngô, sao có thể tùy tiện đem tặng cho người khác? Huống hồ bây giờ vua Từ cũng đã qua đời, thì cần gì phải tặng cho người thừa kế chứ?”
Quý Trát nghe mọi người nói vậy liền trả lời:
“Lần trước trong lúc nói chuyện cùng với vua Từ, ta không tặng bảo kiếm cho ngài là vì ta còn phải có nhiệm vụ đi sứ nước Lỗ. Nhưng trong lòng ta sớm đã hứa sẽ tặng nó cho vua Từ rồi. Đã hứa rồi, sao có thể vì vua Từ đã mất mà lừa gạt lương tâm của mình đây? Hơn nữa, ta là công tử và sứ giả của nước Lỗ mà lại không coi trọng chữ tín, nếu như điều này truyền đi thì đâu còn mặt mũi nào mà đối mặt với mọi người? Người khác sẽ nhìn chúng ta như thế nào?”
Lúc ấy, người kế thừa của vua Từ cũng từ chối không nhận mà nói: “Ta không có di mệnh của người đã mất, nên không dám tiếp nhận thanh bảo kiếm này”
Thế là, Quý Trát liền đem thanh bảo kiếm treo trên cây liễu trước mộ của vua Từ. Hành động này của ông khiến thần dân nước từ ai ai cũng ngợi ca, họ còn sáng tác một ca khúc để ca tụng về ông. Cũng từ đó câu chuyện “Quý Trát treo kiếm” được lưu truyền cho đến thời nay.
Qua câu chuyện này chúng ta có thể nhận thấy ý nghĩa sâu sắc của “thành tín”. Quý Trát đã giữ lời hứa với ngay cả người đã mất. Mặc dù lời hứa này cũng chỉ tồn tại ở trong lòng ông chứ người được hứa hẹn cũng không hề hay biết. Loại cảnh giới cao thượng này thực sự khiến con người phải cảm động.
Theo Daikynguyenvn

Người cứu vật một mạng, vật trả ơn cứu mạng cả thôn

Có câu “cứu vật vật trả ơn”, điều này quả thật đúng, rất nhiều người đã từng gặp trường hợp như thế. Câu chuyện về chú voọc cứu mạng cả thôn làng tại vùng núi sâu Kim Phật khiến người ta phải cảm động.

Cuối tháng 7/2014, Vương Chí Thành sống ở dưới chân núi Bắc Cơ, khi đang hái thuốc trong rừng thì bắt gặp một chú voọc đầu đen má trắng khoảng trên 2 tuổi đang bị thương ở tay trái. Anh Vương ôm chú chú voọc này về nhà, rửa vết thương cho nó, đắp thảo dược, giữ lại trong nhà mà chữa trị.
Một tuần sau, vết thương của chú voọc đã khá lên nhiều, nhưng có vẻ con vật không muốn rời đi, hàng ngày vẫn đi quanh quẩn ở nhà của Vương, thậm chí còn giúp đỡ công việc nhà. Lúc có lợn rừng, khỉ vàng, nhím đến ăn trộm hoa màu, chú voọc liền xông ra hù dọa xua đuổi bọn chúng. Cứ như vậy, sau khi sống ở nhà Vương Chí Thành hơn một tháng,  một buổi sáng nọ chú voọc đã lặng lẽ rời khỏi nhà anh.
Một ngày, vào lúc 3 giờ sáng cuối tháng 9, thôn làng nơi Vương Chí Thành đang ở vẫn còn chìm sâu trong giấc ngủ.
Đột nhiên một tràng tiếng gõ cửa dữ dội cùng với tiếng la hét thảm thiết, khiến Vương bừng tỉnh. Vương chạy ra cửa xem thử, thì ra là chú voọc đã quay về!
Vương đang định tiến lên ôm nó, chú voọc bỗng tỏ thái độ khác thường, giãy giụa khỏi tay anh, lo lắng kêu to. Thấy Vương Chí Thành không hiểu ý mình, chú voọc đưa ngón tay chỉ về phía dãy núi đằng sau. Vương quay đầu lại nhìn, thì phát hiện dãy núi lớn đang sạt lở, những tảng đá lớn trên núi đang không ngừng lăn xuống.
Chú voọc duỗi thẳng tay ra, gắng sức kéo Vương, ngụ ý là bảo anh hãy chạy cho mau. Vương Chí Thành cuối cùng đã hiểu rõ tính nguy hiểm, anh vội chạy về phòng đánh thức vợ, tay bế con thơ, chạy ra khỏi nhà. Tiếp đó, lại đến từng nhà từng nhà một mà hô lớn lên.
Toàn thôn có năm hộ gia đình với tổng cộng hơn hai mươi người vừa chạy ra khỏi nhà, thì những tảng đá to lớn liền lăn xuống, phá hủy hết toàn bộ thôn làng. Rất nhiều người trong làng đã khóc: Nguy hiểm quá, nếu như không phải chú voọc đến cứu, thì cả thôn đã cầm chắc cái chết.
Thôn dân đã được cứu sống, tìm kiếm “ân nhân” cứu mạng mình, chỉ thấy chú vọoc đầu đen má trắng đứng trên tàng cây, tràn đầy vui mừng mà nhìn mọi người, miệng phát ra tiếng kêu mừng rỡ “Ô…. ô….”, cũng là chúc phúc cho những người đã thoát khỏi Tử thần, cũng là chúc phúc cho tất cả những động vật bị con người bắt giết.
Chỉ khuyên con người thế gian khôi phục lòng lương thiện, từ bỏ nghiệp sát, mà hãy phóng sinh, bởi vì phóng sinh động vật vốn cũng là phóng sinh con người, cứu mạng người khác chẳng khác nào cứu mạng của mình, phóng sinh, lợi ích vô cùng, công đức không thể nào tưởng tượng nổi.
Tiểu Thiện, dịch từ Soundofhope

14.11.15

Những câu chuyện xưa về đức tính kiên nhẫn

Dưới đây là những câu chuyện được người xưa truyền lại để ca tụng đức tính cao quý của các bậc cao nhân trong lịch sử. Đó chính là kiên nhẫn – đức tính quý tạo nên nhân cách lớn.



Giữ lời hứa
Vào năm 403 trước Công Nguyên, vương quốc nhà Hán đã mời vương quốc nhà Ngụy để tấn công nhà Chu. Wei Wenhou, người thành lập vương triều Ngụy, đã khước từ và nói rằng,“Nhà Chu và nhà Ngụy như là anh em và chúng tôi đã có một hiệp ước hòa bình với nhau. Tôi thật xin lỗi”. Công sứ của nhà Hán rất giận dữ và bỏ đi.
Sau khi đại vương nhà Chu biết điều này, ông ta rất cảm kích về tình bạn bè giữa ông và Wei Wenhou, nhưng ông ta, cũng vậy, cố mời vương quốc Ngụy để tấn công nhà Hán. Wei Wenhou đã từ chối lời mời và đã đưa ra cùng lý do. Công sứ nhà Chu đã bỏ đi trong giận dữ.
Sau đó, vua của cả 2 nước Chu và Hán đã nghĩ về sự tử tế của Wei Wenhou. Cả hai họ đã khâm phục tính kiên nhẫn của Ngụy và rất cảm kích về tình bạn của ông. Họ đã đến vương quốc Ngụy để tò lòng kính phục. Sau đó, vương quốc Ngụy đã trở thành ưu thế giữa các vương quốc Ngụy, Chu, Hán và không còn nước nào dám nghĩ đến việc tấn công nước Ngụy.
Bố vợ nên bị câm và điếc
Tướng Guo Ziyi đã lập công lớn trong cuộc nổi loạn An Shi và một trong những người cải tổ triều đại nhà Đường. Nhà vua Daizhong đã rất khâm phục tướng Guo, vì thế ông đã để con gái của mình, công chúa Shengping, lấy con trai của Guo là Guo Ai.
Một lần đôi trẻ gây gổ. Khi Guo Ai thấy vợ mình hành xử như một công chúa, anh ta đã đối lại,“Cô thì có cái gì tốt nào? Có phải bởi vì cha cô là một hoàng đế? Nói cô biết sự thật, nếu cha tôi đã không đánh thắng An Lushan, cha cô sẽ không có triều đại này. Cha tôi đã không nghĩ đến ngai vàng và đó là tại sao ông ấy không phải làm vua!”
Sau khi công chúa Shengping nghe những lời lố bịch thế, cô đã trình lên nhà vua ngay lập tức.
Daizong đã lắng nghe sự phàn nàn của con gái mình và đã nói một cách bình tĩnh: “Con chỉ là một đứa trẻ con. Có nhiều điều con không hiểu. Những gì chồng con nói là sự thật. Cha chồng con đã cứu triều đại này. Nếu ông ta đã muốn làm vua, ông ta có thể trở thành vua từ lâu. Chúng ta sẽ không có một triều đại cho gia đình của chúng ta”.
Rồi Daizong khuyên con gái không nên xem nặng lời của chồng mình hoặc kết tội anh ta làm phản mà phải sống một cuộc sống tử tế và bình an. Công chúa Shengping từ từ trở lại điềm tĩnh và trở về với chồng mình.
Trong lúc đó, tướng Guo Ziyi đã biết về những gì con trai mình đã nói, điều mà không thể tin nổi mà được coi như là sự làm phản. Ngay lập tức ông trói con trai lại và đưa anh ta đến cung điện cho nhà vua để xử tội.
Tuy nhiên, Daizong rất bình tĩnh và an ủi vị tướng, “Đó là chuyện cãi nhau của con trẻ. Có lẽ đã có lời nói quá. Nhưng chúng ta người lớn, không nên coi việc quá nghiêm trọng. Có một câu nói xưa cha chồng, cha vợ nên bị câm và điếc. Chúng ta sẽ chỉ cần giả vờ như chúng ta đã không nghe về điều này”.
Sau khi tướng Guo nghe thế, ông thấy thật nhẹ nhõm và thật sự cảm thấy rất vui mừng.
Sự thật về điểm mạnh và yếu
Trong suốt thời đại nhà Tề ở miền Bắc, Cui Luo đã trở thành thủ tướng cánh trái và đã đạt được sự tín nhiệm và kính trọng của nhà vua Shizong. Cui thích đề cử những người có khả năng. Khi ông ta đề bạt Xing Zhou làm trợ tướng với trọng trách phân loại vật liệu, vua Tề đã chấp thuận Xing.
Từ khi Xing được trông coi việc phân lại vật liệu, anh ta đã có nhiều cơ hội gặp gỡ vua Shizong. Anh ta thường xem thường Cui trước mặt nhà vua, vua Shizong đã rất không hài lòng về thái độ này của Xing.
Một dịp nọ, Vua Shizong bảo Cui, “Ngươi thường nói với ta Xing tốt như thế nào, nhưng anh ta thường phê bình ngươi. Ngươi thật ngu ngốc!”
Cui đã nói với một sự khoáng đạt, “Cả hai chúng tôi đều nói sự thật và không có điều gì sai với những gì chúng tôi nói”.
Cui rất rộng lượng với những người khác nhưng lại rất nghiêm khắc đối với mình. Ông ta không chỉ nhìn nhận điểm mạnh và nhẫn nhịn những điểm yếu của người khác mà còn có thể đối diện trước những sai sót của mình. Đó thật là sự nhẫn nhịn và vị tha.
Người xưa thường nói rằng:
Tính kiên nhẫn làm một người trở nên cao thượng và không ham muốn làm một người trở nên mạnh mẽ.
Tính kiên nhẫn là một đức tính quý, một tâm hồn rộng mở và đầy sự từ bi. Đây là một đức tính được truyền xuống từ các chư Thần đến con người, lưu lại trên rất nhiều câu chuyện cổ trong nền văn hóa Thần truyền Trung Hoa. Điều này thể hiện rằng các vị Thần trên thiên thượng mong mỏi tất cả nhân loại chọc được những đặc tính cao quý này.
Theo Chanhkien.org